Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

Bill Gates - đằng sau một ngai vàng (phần 3)


Image
Bill Gates đang đứng nhìn bạn mình là Paul Allen thao tác trên máy tính trạm Teletype
VƯỢT RA KHỎI LỘ TRÌNH QUY ƯỚC
Không bao lâu sau Gates quay trở lại gặp lúc câu lạc bộ máy tính đang đảm nhận công việc kiếm tiền để trả chi phí sử dụng máy tính. Các thành viên bắt đầu thực hiện dự án sử dụng máy tính để đếm lưu lượng ôtô trên đường. 
Những “phi vụ” ban đầu
Traf-O-Data, tên chương trình này, đã mang về cho họ 20.000 USD trước khi các khách hàng của họ tìm nơi cung cấp dịch vụ tinh vi hơn.
Giống như các thiếu niên khác, Gates và bạn bè của mình luôn tìm cách tranh thủ cảm tình từ các giáo viên: “Khi nhận làm công việc sắp xếp lịch học trong trường, chúng tôi tính toán rằng qua đó có thể quyết định một cách chính xác học sinh nam hay nữ nào sẽ vào học ở lớp chúng tôi và điều này là một phần thưởng tuyệt vời. Công việc đó đã thúc đẩy chúng tôi học cách viết các phần mềm thú vị”.
Vào mùa hè đó, Gates và Allen đã kiếm được khoảng 5.000 USD trả bằng giờ sử dụng máy tính nhờ vào việc viết chương trình xếp lịch lớp học.
Một tối, nhân viên của công ty cho thuê thiết bị văn phòng đến văn phòng của C-Cubed và lấy đi những cái ghế mà các cậu bé đang ngồi làm việc. Gates và những người bạn của anh có một bài học sống động trước mắt về ý nghĩa của từ “phá sản”.
Gates và Allen cảm thấy thất vọng khi khó tìm được một máy tính nào khác để làm việc nên cuối cùng Gates và Allen bỏ tiền ra mua một bộ vi xử lý 8008 với giá 360 USD, để hai người cùng với nhóm bạn tự lắp ráp máy tính riêng cho chính mình. Công việc lắp ráp một máy tính đã thuyết phục Gates và Allen rằng họ nên sống chết với công việc kinh doanh phần mềm.
Gates cho đó là điều may mắn: “Khi chúng tôi còn trẻ, Paul Allen đã hướng dẫn tôi rất nhiều về phần cứng máy tính và luôn khuyến khích tôi đặt lòng tin và đánh cược vào bộ vi xử lý. Tôi có may mắn là ngay từ khi còn rất trẻ đã tìm thấy điều mà tôi yêu thích và hấp dẫn tôi - thậm chí đến tận bây giờ. Và tôi cũng may mắn có được song thân luôn động viên khuyến khích”.
Cơ hội được làm công việc lập trình nghiêm chỉnh xuất hiện khi các kỹ sư đang làm việc cho mạng lưới năng lượng Northwest gặp rắc rối, và trong quá trình tìm kiếm câu trả lời họ đã phát hiện tài liệu C-Cubed Problem Report Book. TRW Inc.
Các lỗi xuất hiện ở chương trình đang chạy trên máy PDP-10 đã làm giảm tiến độ phát triển rất nhiều. Tài liệu The Problem Report Book đã chỉ ra và giải thích được rất nhiều lỗi, và người ta đọc được trên tài liệu họ tên của hai lập trình viên đã khám phá các lỗi này - Bill Gates và Paul Allen. Công ty TRW đã tìm ra họ và yêu cầu họ đến Portland, Oregon để phỏng vấn vào làm việc ở công ty.
“Không một ai biết chúng tôi mới chỉ là học sinh lớp 9 và lớp 10”.
Dẫu sao họ cũng được nhận vào làm việc. Gates xin giấy phép nghỉ học tại trường rồi đi tới Portland, tại đây anh và Allen được bố trí riêng một phòng và được phân công làm việc dưới quyền nhà lập trình John Norton. Với khả năng có thể nhớ được một danh sách 5.000 trang của hệ điều hành, Norton đã làm lóa mắt các anh bạn trẻ tài năng vừa mới nhận việc.
Gates thường nói rằng khả năng của Norton đã thách thức mình làm việc tốt hơn: “Trong đầu tôi luôn in đậm hình ảnh của người tên là Norton mà tôi đã gặp tại TRW. Anh luôn chỉ bảo mỗi khi công việc của tôi không đạt đến mức tốt nhất. Vì vậy khi làm việc cẩu thả hoặc lười biếng, tôi liền tưởng tượng thấy anh ấy đến bên tôi, nhìn vào chương trình và nói: Nhìn đây nhé, làm cách này thì tốt hơn đấy”.
Trường Harvard
Bill Gates được nhận vào học ở cả ba trường đại học danh tiếng: Princeton, Yale và Harvard theo chương trình học bổng cấp quốc gia - National Merit Scholar. Anh chọn Đại học Harvard và nhập học vào mùa thu năm 1973. Về nhiều phương diện, Gates là mẫu sinh viên năm thứ nhất điển hình, bị hụt hẫng trước những đòi hỏi mới và mức độ ganh đua gay gắt hơn ở trường đại học.
Anh chểnh mảng việc đến lớp học để suốt ngày vùi đầu vào những dự án riêng của mình trong phòng máy của trường, chơi bài suốt đêm và leo lên giường là lăn ra ngủ chẳng cần phải trải drap giường. Các sinh viên khác nhớ lại anh có thể đi chơi suốt 18-36 tiếng mà không cần ngủ.
Thậm chí ngay tại Harvard, Gates cũng vẫn duy trì kiểu học cũ từ hồi còn ở trung học. Anh học rất giỏi những môn ưa thích và xem thường những môn không say mê. Tâm trí anh dường như không dành cho việc học. Gates rất ít khi tham gia các hoạt động của trường trừ khi người bạn cùng dãy phòng trong ký túc xá, Steve Ballmer, phải hết sức vất vả mới kéo được anh tới các buổi tiệc.
Mặc dù không là học sinh xuất sắc nhất về môn toán ở Harvard, nhưng Gates đã bắt đầu chọn giải toán của sinh viên cao học khi mới học năm thứ nhất và thường được điểm A cao nhất.
Khi việc học ở Harvard làm anh nhàm chán, Gates xin đi làm những công việc có liên quan đến máy tính trong phạm vi bang Boston. Digital Equipment là một trong những công ty anh rất thích đến phỏng vấn xin việc bởi vì ở đây họ dùng trực thăng để đưa những người xin việc từ một sân bay Boston tới trụ sở chính của công ty.
Gates khuyến khích Paul Allen cố gắng tìm kiếm một công việc lập trình tại Honeywell để cả hai cùng có điều kiện tiếp tục thực hiện giấc mơ thành lập công ty phần mềm. Allen và bạn gái anh ta liền lên chiếc xe Chrysler New Yorker cổ lỗ sĩ và đến Boston ngay. Và tất nhiên, chẳng bao lâu nữa cuộc sống của Gates sẽ có một thay đổi bất ngờ.
Một cuộc cách mạng có thể xảy ra mà không cần đến chúng tôi. Paul Allen đã có một phát hiện tuyệt vời vào một ngày giá rét của tháng mười hai khi đi ngang qua sân Trường Harvard sau khi vừa ghé thăm Gates. Trên một quầy báo, anh nhìn thấy trên trang bìa tờ Popular Mechanics, số phát hành tháng 1-1975, có in hình một bộ máy vi tính mới mang tính cách mạng, chiếc máy MITS Altair 8080.
Allen mua ngay một tờ rồi chạy ngược về chỗ Gates để thuyết phục Gates rằng họ nên phát triển một ngôn ngữ riêng cho cỗ máy này.
Chiếc Altair 8080 có 256 byte bộ nhớ (so sánh với 8 triệu hoặc hơn của phần lớn máy tính cá nhân ngày nay) nhưng không có phần mềm.
“Paul cứ luôn miệng nói chúng ta hãy bắt đầu một công ty. Hãy làm việc đó ngay. Chúng tôi nhận ra rằng cuộc cách mạng có thể xảy ra mà không cần đến chúng tôi và vì vậy, sau khi đọc bài báo, mọi câu hỏi về việc lựa chọn đường đi trong cuộc sống của chúng tôi đã được giải đáp”.
Gates và Allen liên lạc với Ed Roberts, người sáng lập Hãng MITS, và hứa hẹn là sẽ cung cấp một chương trình cho máy Altair trước khi họ viết nó. Roberts nhớ lại: “Chúng tôi nhận được khoảng 10 bức thư một ngày. Tôi nói với tất cả rằng hễ ai mà viết xong chương trình này trước tiên coi như người đó đã được đồng ý”. Và hai người bạn lao tới phòng máy tính của Trường Harvard để viết một chương trình mô phỏng bằng ngôn ngữ BASIC.
Sau này nhớ lại, cũng như một số người, Gates coi Altair chỉ là một cái hộp với một hệ thống đèn nhấp nháy. Nhưng Gates còn nghĩ xa hơn: “Công ty MITS đã không hiểu được tầm quan trọng của cỗ máy này. Thật sự chẳng ai hiểu cả, chỉ riêng chúng tôi. Chúng tôi đã nhận ra rằng rồi sẽ có ngày tất cả trường học ở khắp nơi đều phải trang bị chiếc máy tính đó”.
Gates và Allen tin tưởng rằng máy tính sẽ thực hiện được những điều kỳ diệu. Vì vậy khẩu hiệu của hai chàng trai khi mới bắt đầu là “Máy tính có mặt trên mỗi bàn làm việc và trong mỗi gia đình”. Niềm say mê của Gates và Allen để cho ra đời chiếc máy tính cá nhân cuối cùng đã được chứng minh là đúng.
<First News biên dịch>

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.